Mật mông hoa tên khoa học là Buddleja officinalis Maxim, một loại cây bụi trong họ Mã tiền - Loganiaceae, phân bố rộng rãi ở vùng núi các tỉnh phía Bắc Việt Nam như Cao Bằng, Lạng Sơn; Tây Nam và miền trung của Trung Quốc.  Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Là cây nhỏ, có cành non mang rất nhiều lông đơn, mọc rất mau, màu hung hay trắng nhạt, lại có cả những đốm lông bài tiết. Lá hình trứng hay thuôn dài, phía đáy hơi hẹp lại, phía đỉnh nhọn, mép nguyên hay có răng cưa rất nhỏ, dài 6-10cm, rộng 2-4cm, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông mịn. Hoa mọc thành cụm hình xim màu vàng trắng nhạt. Quả nang hình thuôn dài, mang đài còn lại ở phía dưới. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Bộ phận dùng là: Hoa/cụm hoa. Chất lượng của bộ phận dùng này bị ảnh hưởng bởi các giai đoạn phát triển của cây và thời gian thu hoạch. Như được minh họa bởi câu nói cổ của Trung Quốc, “Vào tháng Ba, Mật mông hoa là một loại thảo mộc, rơm vô dụng vào tháng Tư, và củi vào tháng Năm” – Tháng Ba là thời gian hoa chuyển từ nụ sang nở rộ, lúc này các hoạt chất có tác dụng trong hoa đạt cực đại. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Bằng chứng Y học cổ truyền Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Lần đầu tiên Mật mông hoa được ghi lại trong “ Kai Bao Ben Cao”, một công trình hơn một nghìn năm tuổi về các loại thuốc cổ truyền của Trung Quốc. Nó được gọi là " Mi Meng Hua ", được liệt kê trong Dược điển Trung Quốc. Nụ hoa và chùm hoa của cây thuốc này có tác dụng thanh nhiệt lương huyết, dưỡng can, cải thiện thị lực, thường được sử dụng để điều trị các bệnh về mắt do khí huyết hư nhược, nóng gan, sung huyết và đau kết mạc, sợ ánh sáng, chảy nước mắt, mờ mắt, cũng như suy gan. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Vào thế kỷ thứ 7, Vua thuốc cổ đại Trung Quốc Sun Simiao đã sử dụng nó để điều trị cho những bệnh nhân mắc bệnh về mắt. Sun Simiao là một nhà y học nổi tiếng trong thời nhà Đường và được các thế hệ sau coi là "Thần y". Có rất nhiều truyền thuyết về ông trong dân gian. Chẳng hạn, việc ông chữa bệnh mắt cho Xiaobailong bằng Mật mông hoa quả là một câu chuyện kỳ ​​diệu xảy ra ở Tứ Xuyên. Thời xa xưa, đây là vùng đất cằn cỗi, sau đó Xiaobailong được cử đến đây để quản lý cảnh quan. Đột nhiên, ở đây xảy ra tai họa rất nghiêm trọng trong suốt một năm, Xiao Bailong đổ bệnh vì buồn, mắt đỏ hoe, sưng đau, nước mắt đầm đìa như canh nóng, nếu không được cứu chữa kịp thời có thể mất thị lực. Lúc này, Sun Simiao đến Tứ Xuyên để chữa bệnh bằng các cây thuốc của mình thì nhìn thấy đôi mắt của Xiao Bailong đỏ và sưng lên. Sau khi chẩn đoán, Sun Simiao thở dài và nói: "Nguyên nhân sâu xa của căn bệnh này là do suy nhược mãn tính và tổn thương gan, tôi sẽ điều trị theo phương pháp của mình và mọi chuyện sẽ ổn trong vòng bảy ngày". Nói rồi Sun Simiao lấy một nắm lớn Hoa mật mông, rửa sạch, cho nước vào đun sôi. Sau khi đun sôi, anh rửa mắt cho Xiao Bailong và yêu cầu Xiao Bailong uống phần nước Hoa mật mông còn lại. Dưới sự điều trị tỉ mỉ của Sun Simiao, quả nhiên trong vòng bảy ngày, đôi mắt của Xiao Bailong không đỏ cũng không sưng và trở nên sáng rõ như trước. Để trân trọng ký ức của Sun Simiao và Xiao Bailong, các thế hệ sau đã đúc kết câu chuyện này trong Phòng thờ Vua thuốc của đền Dafo. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Còn ở Việt Nam, theo cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS Đỗ Tất Lợi thì Mật mông hoa có vị ngọt, tính bình hơi hàn, quy vào kinh can. Có tác dụng nhuận gan, sáng mắt, trừ màng mộng dùng chữa thong manh, mắt đỏ đau, chảy nước mắt, làm cho các tia đỏ giảm đi. Thường dùng phối hợp với nhiều vị thuốc khác như: Cúc hoa, Kỷ tử, Thục địa,… Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Bằng chứng khoa học hiện đại Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Khoa học hiện đại, bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) đã tìm thấy những hoạt chất tạo nên tác dụng của Mật mông hoa. Crocin III (beta-D-gentiobiosyl crocetin) – một Carotenoid tự nhiên được tìm thấy trong Mật mông hoa cho thấy tác dụng điều hòa trên hệ thần kinh thực vật, điều tiết hai cơ vận nội nhãn là cơ co/giãn đồng tử và cơ thể mi từ đó điều chỉnh sự phồng/dẹt của thấu kính thủy tinh thể làm cho khúc xạ ảnh rơi đúng vào võng mạc – dùng trong điều trị chứng khó nhìn xa cận thị. Ngoài ra Crocin khi chuyển hóa thành Crocetin sẽ có tác dụng ức chế cận thị do tăng yếu tố protin phản ứng sớm Egr - 1; Egr - 1 làm dày màng mạch máu đệm từ đó rút ngắn độ dài trục AL. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Robinin có tác dụng chống co thắt và có tác dụng ức chế sự gia tăng sức căng của ruột non chuột do Bari clorua, histamin và acetylcholin gây ra; giảm tính thẩm thấu của da và mạch máu, do đó làm giảm các tổn thương do viêm nhiễm. Điều này có nghĩa Robinin đối kháng tác dụng với acetylcholin ít nhất là tại ruột non; từ đó mở ra hướng đi: liệu Robinin có kháng acetylcholin tại các cơ vận nhãn hay không? Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Các flavonoid Robinacin, luteolin và iridoid glycosid trong flavonoid trong dịch chiết Mật mông hoa có tác dụng ức chế đáng kể sự tăng tiết dịch của da và mao mạch bụng của chuột bị kích thích bởi chứng viêm, và cũng có tác dụng ức chế đáng kể sự phù nề do formaldehyde gây ra. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Các hoạt chất acteoside, apigenin, buddlejasaponin I, echinacoside, isorhoifolin, linarin, methylcatalpol, mimengoside B, 6-O-vanilloyl ajugol, và salidroside có tác dụng ức chế đáng kể tổn thương gây độc tế bào qua trung gian bổ thể của tế bào gan được nuôi cấy trong ống nghiệm, và các thành phần hoạt tính là phenanthin và phenpropanosides. Cơ chế tác dụng bảo vệ gan của nó có thể liên quan đến hoạt động chống oxy hóa, tiêu diệt gốc tự. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Từ hai bằng chứng nêu trên và việc sử dụng Mật mông hoa trong các bài thuốc cổ phương, kết luận lại tác dụng chữa các bệnh về mắt, cải thiện thị lực của Mật mông hoa là hoàn toàn có cơ sở đáng tin cậy. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

  Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Tài liệu tham khảo Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

[1]. Guoyong Xie,  Ran Li, Yu Han và cộng sự (2017). Tối ưu hóa các điều kiện chiết xuất cho Buddleja officinalis Maxim. Sử dụng phương pháp luận bề mặt đáp ứng và thăm dò thời gian thu hoạch tối ưu. [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6150163] Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

[2]. Đỗ Tất Lợi (2006), xuất bản lần thứ 4. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

[3]. Ji Yun Jung, Chul Won Lee, Sang Mi Park và công sự (2017). Kích hoạt AMPK bởi Buddleja officinalis Maxim. Chiết xuất hoa góp phần bảo vệ tế bào gan khỏi stress oxy hóa. [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5394415] Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

[4]. https://www.pingguolv.com Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn. Bài viết được sao chép từ trang https://myopic.vn.

Tin nổi bật

Hỏi - Đáp

Trẻ dưới 6 tuổi không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài khoa học "Đánh giá hiệu quả cải thiện thị lực của Siro thảo dược Myopic SAMAN trên người bị cận thị ở độ tuổi 6 - 12". Vì thế chúng tôi khuyến cáo không sử dụng cho trẻ dưới 6 tuổi.
Trên thực tế lâm sàng, chúng tôi nhận định: ở người trưởng thành, cơ thể mi và cơ co đồng tử đã ổn định và ngưỡng kích thích trơ lì dần... khả năng điều tiết khúc xạ cho điểm ảnh ở đáy mắt cũng kém dần... vì vậy Myopic SAMAN kém đáp ứng với đối tượng này. Myopic SAMAN có thể giảm các triệu chứng nhức mỏi mắt, chảy nước mắt thụ động ở người trưởng thành.
Theo kết quả thử nghiệm lâm sàng của Viện Y học bản địa Việt Nam, rút ra nhận định ở độ tuổi 6-12 thị lực của trẻ cải thiện 1-2 điểm (trên thang 10) sau 1 tháng sử dụng. Có một tỉ lệ không nhỏ cận thị nhẹ và chớm cận đã phục hồi thị lực hoàn toàn. Cho nên, chúng tôi không cam kết sự phục hồi này là phổ biến trên tất cả người dùng.

Với cận thị trục là loại cận thị mà nhãn cầu có hình oval theo đó trục nhãn trước sau (AL) bị dài ra nên điểm hội tụ quang ảnh không tới võng mạc, cần dùng 6 - 9 tháng.

Với cận thị đơn thuần là loại cận thị có nhãn cầu hình tròn bình thường nhưng vì sự điều tiết quá mức dẫn tới khúc xạ ảnh hội tụ trước võng mạc, cần dùng 3 – 6 tháng.

Theo kết quả nghiên cứu thử nghiệm của Viện Y học bản địa Việt Nam, Myopic SAMAN hoàn toàn không gây biến đổi tiêu cực tới các chỉ số tế bào máu, sinh hóa máu của các tình nguyện viên tham gia. Trên thực tế lâm sàng, chúng tôi chưa ghi nhận bất cứ một tác dụng không mong muốn nào khi sử dụng sản phẩm. Chúng tôi có ghi nhận hai tác dụng phụ là cải thiện trí nhớ và cải thiện giấc ngủ.
Theo cơ chế của Y học cổ truyền, bài thuốc cổ phương nền tảng nghiên cứu ra sản phẩm Myopic SAMAN có khả năng cải thiện tình trạng loạn thị kèm theo.
  • Động viên, khích lệ trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc có một đôi mắt sáng.
  • Tăng cường cho trẻ sử dụng mỡ động vật nhằm mục đích bổ sung nguyên liệu cho việc phục hồi tế bào thị giác. Theo Giáo sư Lê Minh đã viết trong sách Thực y, tỷ số mỡ động vật/dầu thực vật cho trẻ là 7:3, người trưởng thành là 5:5, người cao tuổi là 3:7.
  • Cho trẻ uống đủ nước để tránh khô mắt: Ước tính lượng nước hằng ngày cho trẻ như sau: Lượng nước uống (ml) = 1.000ml + n x 50 (n = số kg của trẻ – 10). Ví dụ, trẻ nặng 13kg cần: 1.000ml + (3 x 50 ml) = 1.150ml. Trẻ từ 10 tuổi trở lên, lượng nước uống bằng người lớn: 2 – 2,5 lít mỗi ngày.
  • Ăn những thức ăn giàu carotenoid như Gấc, Thanh long đỏ và các loại hoa quả như Việt quất, Đùm đũm, các loại quả có màu đỏ khác
  • Có thể uống thêm nước sắc của 3 quả Dành dành mỗi ngày
  • Ăn đủ chất giàu Vitamin nói chung, đặc biệt 2 Vitamin A, D liều theo chỉ định
  • Người giám hộ trẻ cần hạn chế trẻ sử dụng Smart phone, máy tính bảng... dưới 2h/ngày
  • Tăng cường cho trẻ tham gia các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi ngoài trời.
  • Cho trẻ sử dụng Myopic SAMAN đúng và đủ liều theo hướng dẫn sử dụng.

Bác sỹ Hoàng Đôn Hòa - Phó Chủ tịch Viện Y học bản địa Việt Nam